1. Khái quát về hoạt động kêu gọi, quyên góp cứu trợ trong từ thiện

1.1. Khái niệm

Trong những thập kỷ gần đây, đóng góp từ thiện ở Việt Nam thường được huy động qua các kênh chính thức hoặc các tổ chức chính trị – xã hội như Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân… Việc kêu gọi, quyên góp cứu trợ thường tập trung vào một số lĩnh vực như xóa đói giảm nghèo, cứu trợ các nạn nhân chịu ảnh hưởng của thiên tai, bão lũ, cứu trợ trẻ em, người già neo đơn, hỗ trợ người tàn tật, nạn nhân của các vụ bạo hành, lạm dụng hay tổ chức truyền thông, vận động các chiến dịch, tình nguyện viên trong các hoạt động giáo dục, đào tạo, văn hóa, môi trường…


Có thể thấy rằng hoạt động từ thiện nói chung bao gồm rất nhiều hoạt động như: Kêu gọi, quyên góp, tổ chức vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng góp… Như vậy, hoạt động kêu gọi, quyên góp cứu trợ trong từ thiện là gì?

Hoạt động kêu gọi, quyên góp cứu trợ trong từ thiện xuất phát từ tính nhân đạo – một bản tính sẵn có trong mỗi con người, đó vừa là nhu cầu, là tình cảm, vừa là xu thế hướng thiện của con người.

Theo Từ điển tiếng Việt thì “kêu gọi” là lên tiếng yêu cầu, động viên làm việc gì[1]; còn “quyên góp” là đóng góp hoặc vận động mọi người đóng góp tiền của để làm việc nghĩa, việc có ích chung[2]. Cứu trợ là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về vật chất cho mọi người trong xã hội khi họ lâm vào hoàn cảnh khó khăn, rủi ro, bất hạnh, nghèo đói, không đủ khả năng để lo được các nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, của bản thân và gia đình.

Hoạt động cứu trợ bao gồm hai nội dung là cứu tế và trợ giúp. Cứu tế xã hội là sự giúp đỡ bằng tiền mặt hoặc hiện vật có tính khẩn thiết “cấp cứu” ở mức “tối cần thiết” cho những người bị lâm vào cảnh bần cùng, không còn khả năng có thể tự lo liệu cho cuộc sống thường ngày của bản thân và gia đình. Còn trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ thêm vật chất bằng tiền hoặc các điều kiện, phương tiện sinh sống thích hợp hoặc cũng có thể là sự trợ giúp bằng tinh thần để đối tượng được giúp đỡ có thể phát huy khả năng tự lo liệu cuộc sống cho mình và gia đình, sớm được trở lại với cuộc sống bình thường, hòa nhập với cộng đồng.

Hoạt động cứu trợ thường được thực hiện dưới hai phương thức chính: Cứu trợ thường xuyên và cứu trợ đột xuất.

– Cứu trợ thường xuyên là cứu trợ cho những người hoàn toàn không thể tự lo liệu cuộc sống cho mình, phải có sự giúp đỡ thường xuyên như người già cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi, trẻ em trong các gia đình túng thiếu hoặc dân cư ở những khu vực nghèo đói.
– Cứu trợ đột xuất là sự giúp đỡ đối với những người không may chịu ảnh hưởng của thiên tai hoặc mất mùa mà cuộc sống bị đe dọa nếu không có sự trợ giúp của xã hội, cộng đồng một cách khẩn cấp.


Như vậy, có thể hiểu hoạt động kêu gọi, quyên góp cứu trợ trong từ thiện là các hoạt động cá nhân, tổ chức lên tiếng động viên, đóng góp hoặc vận động đóng góp tiền của để cứu giúp, hỗ trợ những hoàn cảnh khó khăn nhằm khắc phục hậu quả thiên tai, khắc phục hậu quả do hỏa hoạn, sự cố nghiêm trọng; hỗ trợ bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo. Hoạt động kêu gọi, quyên góp cứu trợ diễn ra một cách tự nguyện, phi lợi nhuận và tuân theo quy định của pháp luật.

1.2. Quy định pháp luật hiện hành về hoạt động kêu gọi, quyên góp cứu trợ từ thiện

1.2.1. Chủ thể tham gia hoạt động kêu gọi, quyên góp cứu trợ
Theo Nghị định số 64/2008/NĐ-CP ngày 14/5/2008 của Chính phủ về vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện hỗ trợ nhân dân khắc phục khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, sự cố nghiêm trọng, các bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo (Nghị định số 64/2008/NĐ-CP) thì đối tượng được tổ chức vận động, tiếp nhận và phân phối tiền, hàng cứu trợ bao gồm:
– Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
– Hội Chữ thập đỏ Việt Nam;
– Cơ quan thông tin đại chúng của trung ương, địa phương;
– Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội Chữ thập đỏ các cấp ở địa phương. Các quỹ xã hội, quỹ từ thiện quy định tại Nghị định số 148/2007/NĐ-CP ngày 25/9/2007 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện. Các tổ chức, đơn vị ở trung ương được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cho phép; các tổ chức, đơn vị ở địa phương được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh, cấp huyện cho phép. Đối với các cơ quan, tổ chức tiếp nhận tiền, hàng cứu trợ của tập thể, cá nhân thuộc đơn vị mình đóng góp để cứu trợ đồng bào, các địa phương bị thiên tai, hỏa hoạn, sự cố nghiêm trọng thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Nghị định này. Ngoài ra, Nghị định cũng nhấn mạnh, ngoài các tổ chức, đơn vị nêu trên, không một tổ chức, đơn vị, cá nhân nào được quyền tổ chức tiếp nhận tiền, hàng cứu trợ.

 Có thể thấy, chủ thể được tiếp nhận và phân phối tiền, hàng cứu trợ đều là các tổ chức, cơ quan nhà nước, ngoài những đối tượng này thì các cá nhân, tổ chức khác đều không được tổ chức, tham gia tiếp nhận và phân phối tiền, hàng cứu trợ. Như vậy, theo quy định này thì “cá nhân” không thể là chủ thể trong việc vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện hỗ trợ nhân dân khắc phục khó khăn do thiên tai.

1.2.2. Điều kiện thực hiện hoạt động kêu gọi, quyên góp cứu trợ

Điều kiện được tổ chức vận động đóng góp ủng hộ cũng được nêu ra ở Nghị định số 64/2008/NĐ-CP một cách khá rõ ràng, đó là: Việc tổ chức vận động đóng góp ủng hộ khắc phục khó khăn chỉ thực hiện khi thiên tai, hỏa hoạn, sự cố nghiêm trọng xảy ra làm thiệt hại lớn về người, tài sản của nhân dân; các tổ chức vận động đóng góp giúp đỡ các bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo được thực hiện theo từng trường hợp cụ thể thông qua việc tuyên truyền, kêu gọi ủng hộ của các cơ quan thông tin đại chúng; việc đóng góp tiền, hàng khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, sự cố nghiêm trọng; giúp đỡ bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện với lòng hảo tâm; các cơ quan, tổ chức không tự đặt ra mức huy động đóng góp tối thiểu để ép buộc người dân thực hiện.

1.2.3. Hoạt động kêu gọi, đóng góp cứu trợ dưới góc độ pháp luật dân sự Việt Nam

Bản chất của hoạt động quyên góp cứu trợ trong từ thiện là một giao dịch dân sự. Tuy nhiên, phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà ta xác định hoạt động đó là loại giao dịch dân sự nào. 

Trường hợp thứ nhất: Đây là hợp đồng tặng cho tài sản.

Trong trường hợp này, cần làm rõ đâu là bên tặng cho, đâu là bên được tặng cho, đối tượng của hợp đồng tặng cho, sự tặng cho này có dựa trên ý chí tự nguyện hay không?

Theo Từ điển tiếng Việt thì “tặng” có nghĩa là cho, trao cho để khen ngợi, khuyến khích hoặc tỏ lòng quý mến; “cho” là chuyển cái sở hữu của mình sang người khác mà không đổi lấy gì cả. Có thể thấy tặng cho là hợp đồng bởi việc tặng cho không chỉ xuất phát từ mong muốn của bên tặng cho mà còn phải có sự chấp thuận của bên nhận. Hợp đồng tặng cho tài sản là một trong các phương thức chuyển giao tài sản của cá nhân; tặng cho luôn là việc không lấy tiền và được phân định thành tặng cho bất động sản và tặng cho động sản[3]. Theo Điều 457 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì hợp đồng tặng cho là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận. Hợp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng không có đền bù. Đặc điểm này được thể hiện ở việc một bên chuyển giao tài sản và quyền sở hữu tài sản cho bên được tặng cho, còn bên được tặng cho không có nghĩa vụ trả lại cho bên tặng cho bất kỳ lợi ích nào[4].

Đối tượng của hợp đồng tặng cho có thể là động sản (Điều 458 Bộ luật Dân sự năm 2015) và có thể là bất động sản (Điều 459 Bộ luật Dân sự năm 2015). Để có thể trở thành đối tượng tặng cho thì tài sản phải thỏa mãn các điều kiện: Tài sản tặng cho phải được phép giao dịch; tài sản tặng cho phải thuộc sở hữu của người tặng cho tài sản; tài sản tặng cho không đang bị tranh chấp về quyền sở hữu; tài sản tặng cho không bị kê biên để thi hành án.

Chủ thể trong hợp đồng tặng cho tài sản đối với trường hợp quyên góp cứu trợ trong từ thiện là cá nhân, pháp nhân trực tiếp quyên góp từ thiện mà không qua bên trung gian (bên trung gian: Ví dụ như người đứng ra kêu gọi hay pháp nhân có quyền vận động, phân phối…) – là bên tặng cho; còn các cá nhân, pháp nhân được quyên góp – là bên được tặng cho.

Bên tặng cho là cá nhân, pháp nhân có tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Đối với bên tặng cho là cá nhân thì phải có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự phù hợp với loại hợp đồng tặng cho được xác lập. Đối với bên tặng cho là pháp nhân thì thường xác lập, thực hiện hợp đồng tặng cho tài sản thông qua công tác làm từ thiện, trao học bổng,… Bản chất của việc làm từ thiện chính là việc xác lập hợp đồng tặng cho tài sản giữa cá nhân, pháp nhân làm từ thiện với các cá nhân, pháp nhân được nhận quà từ thiện.

Bên được tặng cho tài sản cũng bao gồm cá nhân hoặc pháp nhân. Về nguyên tắc, mọi cá nhân đều có thể trở thành bên được tặng cho tài sản. Với những cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì họ tự bằng hành vi của mình để xác lập, thực hiện hợp đồng tặng cho tài sản. Còn với những cá nhân có năng lực hành vi dân sự một phần hoặc không có năng lực hành vi dân sự thì việc xác lập, thực hiện hợp đồng tặng cho tài sản có thể phải thông qua người đại diện theo pháp luật.

Trường hợp thứ hai: Việc kêu gọi, quyên góp cứu trợ trong từ thiện là hợp đồng ủy quyền.

Trong trường hợp này, cần làm rõ đâu là bên ủy quyền, đâu là bên được ủy quyền, thẩm quyền của bên được ủy quyền đến đâu? Hậu quả pháp lý của việc bên được ủy quyền vượt quá phạm vi được ủy quyền?
Thực tiễn cho thấy không phải lúc nào bên quyên góp, cứu trợ cũng thể trao tặng tiền, hiện vật ủng hộ đến tận tay người nhận, có thể là do điều kiện giao thông không thuận lợi, khoảng cách giữa người quyên góp, cứu trợ và người nhận rất xa hay cũng do hoàn cảnh thiên tai, thời tiết khắc nghiệt… mà bên cứu trợ, quyên góp ủng hộ không thể thực hiện, xác lập giao dịch dân sự này nên họ sẽ gửi tiền, hiện vật cho một cá nhân, tổ chức đại diện ủy quyền để trao đến những người đang lâm vào cảnh khó khăn, hoạn nạn nhằm phần nào có thể khắc phục cuộc sống của họ. Những cá nhân, tổ chức này là bên trung gian được ủy quyền nhận, vận chuyển và giao tài sản đến những người được tặng cho tài sản. Từ đó, các bên chủ thể sẽ thực hiện, xác lập hợp đồng ủy quyền.

Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền. Bên ủy quyền phải trả thù lao nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định[5]. Trên cơ sở hợp đồng ủy quyền, người được ủy quyền đại diện cho người ủy quyền thực hiện các hành vi pháp lý trong phạm vi thẩm quyền. Vì vậy, đại diện theo ủy quyền có hai mối quan hệ pháp lý cùng tồn tại:

Thứ nhất, quan hệ giữa người ủy quyền và người được ủy quyền. Trong quan hệ này, người được ủy quyền có nghĩa vụ phải thực hiện hành vi pháp lý trong phạm vi ủy quyền.

Thứ hai, quan hệ giữa người được ủy quyền với bên thứ ba của giao dịch. Người được ủy quyền với tư cách của người đã ủy quyền giao kết hoặc thực hiện các giao dịch dân sự với người thứ ba. Người được ủy quyền có những quyền và nghĩa vụ nhất định với người thứ ba của giao dịch.

Chính vì thế khi không thể trực tiếp quyên góp, ủng hộ cứu trợ cho người khác thì những người tham gia quyên góp, ủng hộ có thể ủy quyền cho một cá nhân, tổ chức khác để có thể nhanh chóng khắc phục sự cố, cứu trợ người khác. Ở giao dịch này, người uỷ quyền là người quyên góp, ủng hộ cứu trợ, còn người được ủy quyền có chính là người đứng ra kêu gọi quyên góp cứu trợ hoặc có thể là Mặt trận Tổ quốc, quỹ từ thiện… Những người quyên góp, ủng hộ có quyền đóng góp tài sản, tiền, hiện vật cho những người đứng ra kêu gọi quyên góp để những người này sẽ đại diện cho những người quyên góp, ủng hộ trao tiền, hiện vật đóng góp cho những người khó khăn, hoạn nạn cần hỗ trợ, giúp đỡ. Ngược lại, bên được ủy quyền là những người đứng ra kêu gọi quyên góp có nghĩa vụ thực hiện công việc mà bên ủy quyền giao, đó là, phải chuyển hàng đóng góp cho những người được hỗ trợ, giúp đỡ. Để có thể xác định hoạt động kêu gọi, quyên góp cứu trợ trong từ thiện là một loại hợp đồng tặng cho tài sản hay hợp đồng ủy quyền còn phải dựa vào từng trường hợp và đối tượng, chủ thể tham gia giao dịch. Nếu người quyên góp, ủng hộ trực tiếp trao tiền, hiện vật đến tận tay những người được giúp đỡ thì có thể xác định đó là một hợp đồng tặng cho. Còn nếu người quyên góp, ủng hộ ủy quyền cho người đứng ra kêu gọi quyên góp để họ trao cho những người được giúp đỡ thì có thể xác định đây là một hợp đồng ủy quyền.